Hồ thỉ tứ phương nan tử chí
Tang bồng vạn lý trượng phu tâm
Gió đưa quý hữu tình thâm
Nắng chớ ghìm lá liễu mưa đừng bầm đọt lê
Tu thân rồi hễ gia tề
Dĩ hòa vi quý ông thánh đà đinh ninh
Anh em mình là kẻ hậu sinh
Ăn thua có một chữ tình mà thôi
Khi đi khi đứng khi ngồi
Khi ra quán sách khi ngồi gia trung
Trương Công xưa đáng bậc anh hùng
Chín đời con cháu ở chung một nhà
Lưu Bình kia ruột đói sát da
Không cơm no bụng bạn mà giúp lương
Nghĩa kim bằng hết mực yêu thương
Bạn ở làm sao cho trọn niềm bằng liêu.


Ghi chú: Tang bồng: “Tang bồng” vốn là cách nói tắt của “Tang hồ bồng thỉ”. “Tang” là dâu, “hồ” là cung, “tang hồ” là cung bằng gỗ cây dâu. “Bồng” là “cỏ bồng”, “thỉ” là “tên”, “hồ thỉ” là tên bằng cỏ bồng. Tang hồ bồng thỉ, nghĩa là cung làm bằng gỗ dâu, tên làm bằng cỏ bồng. Tục truyền, ngày xưa ở Trung Quốc, hễ đẻ con trai thì dùng loại cung tên này bắn sáu phát; bắn bốn phát ra bốn hướng, một phát lên trời, còn một phát xuống đất. Ngụ ý của việc làm này là sau này trưởng thành, người con trai sẽ mang chí lớn “hai vai gánh vác sơn hà”, tung hoành dọc ngang giữa trời đất. Với nghĩa ấy, “tang bồng” thường kết hợp với các từ như “Chí tang bồng”, “nợ tang bồng”. Thành ngữ “thoả chí tang bồng” hay là “phỉ chí tang bồng” dùng để chỉ sự thoả mãn, tự do trong hành động nhằm thực hiện chí lớn, không chịu bất kỳ một sự gò bó, ràng buộc nào.; 2 Hễ: Hãy.; 3 Trương Công: Chỉ Trương Phi, danh tướng nhà "Thục Hán thời Tam Quốc".; 4 Lưu Bình: Một nhân vật nôi tiếng về sự đối xử tốt với bạn bè.; 5 Kim bằng: Bạn hữu (bạn vàng)